Bộ Tư pháp đang thẩm định dự thảo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định cụ thể số lượng Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Trưởng Ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp xã và việc bố trí đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp xã hoạt động chuyên trách.
Đề xuất đơn vị hành chính cấp tỉnh có tối đa 4 Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân
Theo Tờ trình của Bộ Nội vụ, việc ban hành Nghị quyết nhằm cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị quyết số 203/2025/QH15) và Luật Tổ chức chính quyền địa phương số 72/2025/QH15; nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp xã trong điều kiện thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp và tăng cường phân quyền, phân cấp cho chính quyền địa phương các cấp.
Đối với số lượng Phó Chủ tịch, Phó Trưởng Ban, Ủy viên hoạt động chuyên trách của Ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, căn cứ Kết luận số 187-KL/TW ngày 29/8/2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, dự thảo Nghị quyết quy định: Về số lượng Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, đối với các tỉnh, thành phố thực hiện sáp nhập, hợp nhất, các thành phố thực hiện hợp nhất, sáp nhập 3 đơn vị hành chính cấp tỉnh có không quá 4 Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân; thành phố thực hiện hợp nhất, sáp nhập 2 đơn vị hành chính cấp tỉnh có không quá 3 Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân; tỉnh thực hiện hợp nhất, sáp nhập có không quá 3 Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân.
Đối với các tỉnh, thành phố không thực hiện hợp nhất, sáp nhập thì có không quá 2 Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân. Trường hợp bố trí Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách thì số lượng Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh giảm tương ứng một người.
Về số lượng Phó Trưởng Ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, đối với các tỉnh, thành phố thực hiện sáp nhập, hợp nhất, các tỉnh, thành phố thực hiện hợp nhất, sáp nhập 3 đơn vị hành chính cấp tỉnh có không quá 4 Phó Trưởng Ban; tỉnh, thành phố thực hiện hợp nhất, sáp nhập 2 đơn vị hành chính cấp tỉnh có không quá 3 Phó Trưởng Ban.
Trường hợp Ban Dân tộc được thành lập trên cơ sở Ban Dân tộc đã có của 3 tỉnh, thành phố trước hợp nhất, sáp nhập thì có không quá 4 Phó Trưởng Ban; trường hợp Ban Dân tộc được thành lập trên cơ sở Ban Dân tộc đã có của 2 tỉnh, thành phố trước hợp nhất, sáp nhập thì có không quá 3 Phó Trưởng Ban; trường hợp Ban Dân tộc được thành lập trên cơ sở Ban Dân tộc đã có của một tỉnh, thành phố trước hợp nhất, sáp nhập thì có không quá 2 Phó Trưởng Ban.
Đối với các tỉnh, thành phố không thực hiện hợp nhất, sáp nhập thì mỗi ban có không quá 2 Phó Trưởng Ban. Trường hợp bố trí Trưởng Ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách thì số lượng Phó Trưởng Ban giảm tương ứng một người.

Cũng theo dự thảo Nghị quyết, mỗi ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có không quá một Ủy viên là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách.
Đối với Hội đồng nhân dân cấp xã, dự thảo Nghị quyết quy định mỗi Hội đồng nhân dân cấp xã có một Phó Chủ tịch. Mỗi ban của Hội đồng nhân dân cấp xã được tính bình quân 2 Phó Trưởng Ban. Căn cứ vào diện tích tự nhiên, quy mô dân số, phân loại đơn vị hành chính, phân loại đô thị, tình hình kinh tế-xã hội và định hướng của Ban Thường vụ tỉnh ủy, thành ủy, Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh sẽ quyết định số lượng cụ thể. Tuy nhiên, tổng số Phó Trưởng Ban của Hội đồng nhân dân cấp xã không được vượt quá khung bình quân đã quy định.
Riêng số lượng Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Trưởng Ban của Hội đồng nhân dân và Ủy viên của Ban của Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách thực hiện theo quy định của Luật Thủ đô.
Rà soát các quy định bảo đảm tính logic, đồng bộ
Chiều 29/9, tại cuộc họp Hội đồng thẩm định dự thảo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định cụ thể số lượng Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Trưởng Ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp xã và việc bố trí đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp xã hoạt động chuyên trách, các ý kiến trong hội đồng thẩm định bày tỏ nhất trí về cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý của việc xây dựng Nghị quyết.
Theo đánh giá của các thành viên, việc ban hành Nghị quyết sẽ tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất cho tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp xã trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp, phù hợp với Hiến pháp và Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
Đây cũng là bước đi quan trọng nhằm đáp ứng yêu cầu tăng cường phân quyền, phân cấp, gắn với thực tiễn của địa phương, qua đó góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp trong giai đoạn phát triển mới.
Đại diện Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội nhận định, dự thảo Nghị quyết đã quy định bảo đảm tính linh hoạt, phù hợp với yêu cầu đẩy mạnh phân cấp, phân quyền theo phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”.
Đánh giá cao dự thảo Nghị quyết, Thứ trưởng Tư pháp Đặng Hoàng Oanh, Chủ tịch Hội đồng thẩm định nhấn mạnh: Các quy định trong dự thảo Nghị quyết bảo đảm hợp hiến, hợp pháp, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đồng thời tính đến yêu cầu bảo đảm quốc phòng, an ninh, nguồn lực tài chính và nhân lực.
Tuy nhiên, Thứ trưởng đề nghị cơ quan soạn thảo tiếp tục rà soát, làm rõ hơn các quy định về phân quyền, phạm vi điều chỉnh để bảo đảm phù hợp với các nguyên tắc và quy định về phân cấp, phân quyền tại Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Cùng với đó, cần rà soát quy định tại các nhóm nội dung chính của dự thảo Nghị quyết, phạm vi điều chỉnh để bảo đảm cụ thể, logic.
Nhất trí với việc xây dựng Nghị quyết theo trình tự thủ tục rút gọn, Thứ trưởng đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát, hoàn thiện hồ sơ dự thảo Nghị quyết bảo đảm tuân thủ quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.