Đây là dịp để Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam tổng kết những thành tựu đã đạt được trong gần nửa thế kỷ qua, đồng thời chỉ ra những hạn chế, bất cập trong công tác nghiên cứu, sưu tầm và phát huy giá trị di sản văn hóa, văn nghệ dân gian các dân tộc Việt Nam kể từ sau năm 1975 đến nay.

Phát biểu đề dẫn Hội thảo, GS.TS Lê Hồng Lý - Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam khẳng định, văn hóa, văn nghệ dân gian Việt Nam sau năm 1975 phát triển mạnh mẽ, cả trong công tác sưu tầm, phổ biến và truyền dạy. Nhiều di sản văn hóa dân gian được sưu tầm, khôi phục, được ghi chép lại và được thực hành trong đời sống.
“Có những di sản, ngày xưa từng bị coi là mê tín dị đoan, nhưng đến nay lại trở thành Di sản văn hóa thế giới như Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt, hoặc việc sưu tầm được một pho tàng sử thi Tây Nguyên, phục dựng những di sản văn hóa dân gian trên khắp mọi miền đất nước…” - GS.TS Lê Hồng Lý cho hay.
Theo Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, trong thời đại số hiện nay, văn hóa văn nghệ dân gian đang có bước chuyển mình lớn. Sự phát triển của công nghệ là một thách thức lớn đối văn hóa dân gian, bởi không gian và môi trường sống của văn hóa dân gian là ở các làng quê.
Tuy nhiên, do ảnh hưởng của quá trình hội nhập quốc tế mạnh mẽ, các làng quê đang dần bị đô thị hóa, không gian để văn hóa, văn nghệ dân gian đang dần bị thu hẹp, đó là một thách thức lớn trong việc bảo tồn và phát triển văn hóa, văn nghệ dân gian.
Những phong tục, tập quán hay di sản văn hóa dân gian, từ nghi thức tín ngưỡng, lễ hội, đến dân ca, dân vũ… đứng trước nguy cơ mai một, đặt ra trách nhiệm lớn lao cho những người làm công tác sưu tầm, nghiên cứu và bảo tồn di sản văn hóa, văn nghệ dân gian, cũng như trách nhiệm của những nhà quản lý trong quá trình hoạch định, xây dựng chính sách làm sao để vừa có thể bảo tồn, gìn giữ được giá trị di sản, vừa phát triển di sản văn hóa văn nghệ dân gian lan tỏa đến cộng đồng…

Tại Hội thảo, các tác giả, nhà nghiên cứu, sưu tầm văn nghệ dân gian mang đến những góc nhìn đa chiều về bức tranh văn hóa, văn nghệ dân gian Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất (1975 - 2025); phân tích những thành tựu, đóng góp của văn hóa, văn nghệ dân gian trong 50 năm qua; những khó khăn, nguy cơ mai một trong quá trình hội nhập, đồng thời gợi ý, đề xuất cách tiếp cận, bảo tồn văn hóa, văn nghệ dân gian trong bối cảnh hội nhập và phát triển hiện nay.
GS.TS Nguyễn Chí Bền - nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia cho rằng, sau năm 1975, văn hóa, văn nghệ dân gian trên cả nước đã đạt được nhiều thành tựu. Sưu tầm, nghiên cứu văn hóa dân gian Nam Bộ cũng nằm trong sự phát triển chung đó, ở các loại hình: Ngữ văn dân gian (truyện kể, truyện cười, truyện trạng, ca dao, dân ca, tục ngữ, vè câu đố), nghệ thuật dân gian (kiến trúc dân gian), nghệ thuật trình diễn dân gian (dân ca, nhạc lễ, đờn ca tài tử), tri thức dân gian và làng nghề, tín ngưỡng và lễ hội dân gian, nghệ nhân.
Trong tham luận, GS.TS Nguyễn Chí Bền đã trình bày hệ thống những thành tựu nghiên cứu, sưu tầm văn hóa dân gian Nam Bộ theo các loại hình: ngữ văn dân gian (truyện kể, truyện cười, truyện trạng, ca dao, dân ca, tục ngữ, vè, câu đố), nghệ thuật dân gian (kiến trúc dân gian), nghệ thuật trình diễn dân gian (nhạc lễ, dân ca, đờn ca tài tử), tri thức dân gian và làng nghề, tín ngưỡng và lễ hội dân gian, cũng như vai trò của đội ngũ nghệ nhân.

Chia sẻ tại Hội thảo, PGS.TS Trần Thị An - Giảng viên cao cấp Trường Khoa học liên ngành và nghệ thuật (Đại học Quốc gia Hà Nội) cho biết, ngày thống nhất đất nước 30/4/1975 đã mở ra một kỷ nguyên mới cho các hoạt động văn học nghệ thuật trên cả nước. Trải qua những tháng năm khó khăn thời hậu chiến, ở 3 thành phố Hà Nội - Huế - Thành phố Hồ Chí Minh, các hoạt động văn học nghệ thuật nói chung, các hoạt động văn hóa văn nghệ dân gian nói riêng, đã từng bước định hình và phát triển theo định hướng mới của một đất nước thống nhất.
Hoạt động của đội ngũ sưu tầm, nghiên cứu văn nghệ dân gian ở 3 thành phố có những khởi sắc với việc hài hòa giữa sưu tầm và nghiên cứu, giữa việc áp dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống và các phương pháp nghiên cứu mới, liên ngành và cập nhật so với các xu hướng nghiên cứu trên thế giới… đóng góp cho việc bảo tồn văn hóa truyền thống của vùng đất và con người 3 thành phố nói riêng, cả nước nói chung, nhằm phục vụ phát triển bền vững vùng, miền và đất nước…
Hội thảo lần này được giới nghiên cứu đánh giá là hoạt động có ý nghĩa thiết thực, góp phần nhìn lại chặng đường 50 năm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân gian dân tộc, đồng thời định hướng cho công tác nghiên cứu trong giai đoạn mới – gắn kết hơn với đời sống đương đại và tiến trình chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa.