Yêu cầu về một bộ SGK dùng chung trong Nghị quyết 71 nằm trong phần nhiệm vụ và giải pháp cùng với một số nội dung, đó là: “Chú trọng giáo dục tư tưởng, truyền thống, đạo đức, thể chất, thẩm mỹ, giáo dục hướng nghiệp, kỹ năng mềm”; “tăng thời lượng các môn khoa học-công nghệ, tin học, nghệ thuật; nghiên cứu đưa kiến thức về năng lực số, trí tuệ nhân tạo vào chương trình giáo dục phổ thông”; “chuyển mạnh sang phương pháp giáo dục hiện đại, tích cực, tăng cường tự học, trải nghiệm sáng tạo, hướng học sinh phát huy tư duy độc lập, năng lực giải quyết vấn đề”; “tiếp tục đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá, bảo đảm đánh giá trung thực kết quả học tập và giảng dạy”...

Như vậy, vấn đề một bộ SGK không đơn giản là vấn đề tài liệu học tập mà nằm trong tổng thể chính sách chung về đổi mới giáo dục.
Với nội dung “chú trọng giáo dục tư tưởng, truyền thống, đạo đức, thể chất, thẩm mỹ, giáo dục hướng nghiệp, kỹ năng mềm”, một bộ SGK (nhất là với các môn xã hội nhân văn) bảo đảm truyền tải thống nhất và có chất lượng về mặt giáo dục đạo đức, truyền thống, thẩm mỹ dân tộc. Nhu cầu này là cấp thiết trong bối cảnh ngày càng phức tạp về toàn cầu hóa văn hóa; chủ nghĩa thương mại cục bộ; bóp méo thông tin trên internet; thao túng dữ liệu về quốc gia với mô hình các ngôn ngữ lớn dành cho trí tuệ nhân tạo (AI), xung đột sắc tộc leo thang. Học sinh cần một nền tảng kiến thức thống nhất, được nhà nước trực tiếp biên soạn, để vững vàng về trí tuệ và tư tưởng trước các biến động lớn của thời cuộc.
Thêm nữa, xây dựng hình ảnh quốc gia cũng rất thiết yếu trong bối cảnh cạnh tranh về quyền lực mềm. Vì vậy, trang bị kiến thức nền về bản sắc dân tộc cho toàn thể công dân, nhất là học sinh là trách nhiệm của chính quyền. SGK là công cụ hữu hiệu để thực thi chính sách này, bằng chứng là một số nhà nước Đông Á tiên tiến như chính quyền Trung Quốc và Singapore đã thực thi nhiều bộ SGK cùng tồn tại trong nhiều năm, nhưng gần đây, nhà nước lại bắt đầu trực tiếp xây dựng một bộ SGK tiêu chuẩn cho các môn học về xã hội-tư tưởng.
Với nội dung “tăng thời lượng các môn khoa học-công nghệ, tin học, nghệ thuật; nghiên cứu đưa kiến thức về năng lực số, trí tuệ nhân tạo vào chương trình giáo dục phổ thông”, các bộ môn về công nghệ, tin học có độ thay đổi chóng mặt về nội dung giảng dạy (do liên tục có những tiến bộ mới về công nghệ, ví dụ như trong lĩnh vực AI đã chứng kiến các đột phá mới theo từng quý/năm). Tuy vậy, các công nghệ mới đó vẫn tuân theo một số nguyên lý học thuật và đạo đức công nghệ cơ bản, cần trang bị cho toàn dân để có thể sử dụng công nghệ một cách có phê phán, thay vì bị cuốn vào những thay đổi hình thức. Vì vậy, nhà nước cần trực tiếp tuyển lựa các tri thức khoa học căn cốt nhất, trình bày tinh gọn trong một bộ SGK để làm cơ sở vững chắc cho nhà trường tự triển khai các chương trình công nghệ tin học tại cơ sở; tránh biến các tiết công nghệ thành tiết “cập nhật phần mềm”.
Với nội dung “chuyển mạnh sang phương pháp giáo dục hiện đại, tích cực, tăng cường tự học, trải nghiệm sáng tạo, hướng học sinh phát huy tư duy độc lập, năng lực giải quyết vấn đề”, nhà nước khuyến khích tự học, trải nghiệm sáng tạo và phát huy tư duy độc lập. Học sinh chỉ có thể thực hành được những năng lực trên khi có kiến thức nền vững chắc. Ví dụ với môn Ngữ văn, học sinh chỉ có thể tự/độc lập phân tích một tác phẩm mới (ngoài SGK) khi được trang bị đầy đủ kiến thức về lịch sử, văn hóa, thời kỳ văn học Việt Nam với một lượng nhất định tác phẩm mẫu được trình bày sẵn trong SGK. Biên soạn và trình bày, in ấn lượng lớn kiến thức như vậy chỉ có thể trông cậy vào nguồn lực của nhà nước chứ khó có thể trông mong nguồn thị trường nào khác.
Nội dung “tiếp tục đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá, bảo đảm đánh giá trung thực kết quả học tập và giảng dạy” cũng là nội dung rất quan trọng, liên quan đến kiểm tra đánh giá. Thực tế kỳ thi tốt nghiệp năm 2025 vừa qua cho thấy (mà điển hình là môn Tiếng Anh) xuất hiện tình trạng thi nội dung chưa học. Có nhiều nguyên nhân, nhưng một phần là do chưa có một bộ SGK tiêu chuẩn để tham chiếu khi xây dựng ngân hàng đề thi. Nếu để tình trạng này kéo dài, có thể gây bất bình đẳng giáo dục bởi một lượng học sinh có điều kiện kinh tế để ôn luyện các dạng bài không có trong sách sẽ bỏ xa điểm số với phần thí sinh còn lại.