Cân nhắc lộ trình phù hợp mục tiêu đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai

Nhấn mạnh việc đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong hệ thống giáo dục vào năm 2035 là một tầm nhìn đúng đắn và cấp thiết, tuy nhiên các đại biểu Quốc hội cho rằng, để đạt được mục tiêu trên, cần đầu tư mạnh mẽ và đồng bộ; chuẩn hóa đội ngũ giáo viên và có lộ trình phù hợp với thực tiễn từng vùng, từng địa phương.
image-2025-11-25t154921658-1764060574.jpg
Đại biểu Quốc hội thảo luận ở tổ về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026-2035. (Ảnh: DUY LINH)

Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, sáng 25/11, Quốc hội thảo luận ở tổ về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026-2035.

Thảo luận tại tổ, các ý kiến đại biểu Quốc hội cho rằng việc xây dựng một Chương trình mục tiêu quốc gia riêng cho giai đoạn 2026-2035 là hết sức cần thiết, nhằm tăng tính tập trung nguồn lực, bảo đảm sự điều phối liên ngành và tạo bước đột phá cho hệ thống giáo dục trong thập kỷ tới.

Một trong những mục tiêu quan trọng của Chương trình là “đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông, với mốc 30% vào năm 2030 và 100% vào năm 2035”.

image-2025-11-25t154947433-1764060607.jpg
Đại biểu Đoàn Thị Lê An (Đoàn Cao Bằng). (Ảnh: DUY LINH)

Đại biểu Đoàn Thị Lê An (Đoàn Cao Bằng) nhận định: Tờ trình của Chính phủ và dự thảo Nghị quyết đã đưa ra mốc thời gian thực hiện, mục tiêu cụ thể, nguồn lực thực hiện. Việc đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong hệ thống giáo dục là một tầm nhìn đúng đắn và cấp thiết, Tuy nhiên, đại biểu bày tỏ băn khoăn về tính khả thi của mục tiêu này.

Đại biểu cho rằng đây là một định hướng lớn, thể hiện quyết tâm hội nhập quốc tế sâu rộng. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần đánh giá thẳng thắn những điều kiện và thách thức về cơ sở vật chất, nhân lực và môi trường triển khai, tập trung vào bốn nhóm vấn đề như:

Về cơ sở vật chất - điều kiện tiên quyết của dạy học bằng tiếng Anh, đại biểu chỉ ra hiện nay chênh lệch đầu tư cơ sở vật chất giữa các vùng vẫn rất rõ nét như đối với Khu vực đô thị như: thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng đã có nhiều trường tiên tiến, trường quốc tế, có mô hình dạy học các môn khoa học tự nhiên bằng tiếng Anh. Tuy nhiên, số lượng này chủ yếu là trường tư thục hoặc công lập chất lượng cao, chưa đại diện cho hệ thống phổ thông diện rộng.

Trong khi đó, tại khu vực nông thôn đồng bằng, vẫn còn khoảng 25-35% trường thiếu phòng học bộ môn đạt chuẩn để triển khai dạy học trực tuyến hỗ trợ tiếng Anh. Khu vực miền núi (thí dụ tại tỉnh Cao Bằng): Gần 70% trường phổ thông khi được đánh giá vẫn chưa đạt chuẩn về thiết bị công nghệ phục vụ học ngoại ngữ; nhiều điểm trường lẻ của vùng dân tộc thiểu số còn chưa có phòng học kiên cố, việc đầu tư phòng chức năng cho tiếng Anh gần như không khả thi trong ngắn hạn…

Bên cạnh đó, đại biểu cũng nêu lên “điểm nghẽn” lớn hiện nay là tình trạng thiếu trầm trọng giáo viên tiếng Anh, nhiều địa phương hiện thiếu hàng nghìn giáo viên ngoại ngữ đạt chuẩn. Như vậy, chỉ tiêu 100% vào năm 2035 là khả thi về mặt đường lối, nhưng đòi hỏi một cuộc cải cách lớn về đào tạo-tuyển dụng- đãi ngộ giáo viên, đặc biệt là giáo viên dạy môn học bằng tiếng Anh.

Dẫn chứng tại miền núi, trong đó có tỉnh Cao Bằng, tỷ lệ học sinh dân tộc thiểu số chiếm trên 90%, trong khi tiếng Việt còn là ngôn ngữ thứ hai, đại biểu đánh giá việc yêu cầu tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai trong trường học là vô cùng thách thức.

Đề cập đến tính khả thi theo mốc thời gian, đại biểu cho rằng đến năm 2030 sẽ khả thi với điều kiện tập trung vào đô thị và đồng bằng trước. Xây dựng mô hình thí điểm “trường trọng điểm tiếng Anh” tại tỉnh miền núi, nhưng chỉ nên chọn trường trung tâm.

Để thực hiện được mục tiêu trên, đại biểu kiến nghị Ban soạn thảo nghiên cứu ban hành Chương trình quốc gia đào tạo giáo viên dạy môn học bằng tiếng Anh: mục tiêu đào tạo ít nhất 20 nghìn giáo viên môn Toán-Khoa học tự nhiên-Tin học có khả năng giảng dạy bằng tiếng Anh đến 2035; tăng đầu tư cơ sở vật chất cho các tỉnh miền núi; đồng thời có chính sách thu hút giáo viên tiếng Anh chất lượng cao như tăng phụ cấp thu hút lên 70-100% lương cơ bản cho giáo viên về vùng khó khăn, hỗ trợ nhà ở, cam kết hợp đồng dài hạn. Mặt khác, phát triển mô hình trung tâm tiếng Anh số quốc gia.

image-2025-11-25t155027259-1764060641.jpg
Đại biểu Ma Thị Thúy (Đoàn Tuyên Quang). (Ảnh: DUY LINH)

Chung quan điểm, đại biểu Ma Thị Thúy (Đoàn Tuyên Quang) cũng băn khoăn tính khả thi của mục tiêu nêu trên, nhất là đối với các tỉnh miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đại biểu cho rằng, dự thảo Nghị quyết cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các mục tiêu và cơ chế thực hiện để bảo đảm tính thực tiễn.

Nêu thực tế, nhiều xã miền núi hiện nay còn thiếu giáo viên tiếng Anh cơ bản; hạ tầng công nghệ thông tin, thiết bị nghe - nhìn còn rất hạn chế, đại biểu cho rằng việc yêu cầu 100% cơ sở giáo dục có đủ thiết bị dạy học để triển khai thực hiện đưa tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai vào năm 2035 là mục tiêu rất cao, tiệm cận với các quốc gia phát triển. Do đó, đại biểu đề nghị Chính phủ cân nhắc lộ trình đặc thù cho miền núi; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, kết nối lớp học trực tuyến, AI để bù đắp thiếu giáo viên; xây dựng trung tâm tiếng Anh vùng khó khăn theo mô hình liên xã.

image-2025-11-25t155057898-1764060673.jpg
Đại biểu Bùi Sỹ Hoàn (Đoàn thành phố Hải Phòng). (Ảnh: QH)

Đại biểu Bùi Sỹ Hoàn (Đoàn thành phố Hải Phòng) cũng chỉ ra rào cản về năng lực giáo viên và sự chênh lệch vùng miền trong đào tạo tiếng Anh.

Đại biểu phân tích: "Ngay cả giáo viên dạy ngoại ngữ hiện nay ở nhiều nơi còn chưa chuẩn, chưa nói đến giáo viên các môn khác phải dạy bằng tiếng Anh". Hơn nữa, theo đại biểu, đưa một ngoại ngữ thành ngôn ngữ thứ hai còn liên quan đến vấn đề bản sắc văn hóa, do vậy cần một sự chuyển biến nhận thức xã hội sâu sắc.